Không khí ô nhiễm tồn tại xung quanh con người, rất khó để trốn tránh, kể cả đối với những cư dân đang sống ở những khu vực phát triển giàu có. Nồng độ khói bụi nhìn thấy được trong không khí không thể phản ánh được mức độ trong lành của môi trường sống.
Ảnh minh họa.
Thành phố Kuching và thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia, thủ đô Hà Nội của Việt Nam, thủ đô Jakarta của Indonesia và đảo quốc Singapore đã bị đưa vào danh sách các thành phố có mức độ ô nhiễm không khí cao nhất thế giới. Các vụ cháy rừng tại Indonesia khiến Indonesia, Malaysia và Singapore chìm trong khói mù do đốt rừng.
Ô nhiễm không khí được cho là có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm trọng ở t.rẻ e.m. Tiếp xúc với ô nhiễm không khí trong thời kỳ đầu đời có thể có các dấu hiệu trầm cảm, lo lắng và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác ở t.uổi dậy thì – theo nghiên cứu mới của Đại học Cincinnati ở Mỹ.
Hội nghị Bộ trưởng Bộ Môi trường các nước ASEAN và các hội nghị liên quan vừa diễn ra tại Seam Reap, Campuchia đã tập trung thảo luận và đưa ra tuyên bố về các vấn đề liên quan đến khói bụi xuyên biên giới. Tuyên bố chung được các bộ trưởng các nước thành viên thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thông qua có 19 nội dung trong đó có hàng loạt các nội dung liên quan tới vấn đề khói mù. Điều này cho thấy “vấn nạn” khói mù và ô nhiễm bụi mịn đang ngày càng trở thành vấn đề báo động cần phải chung tay giải quyết giữa các quốc gia trên thế giới.
800 người chết/giờ do ô nhiễm
Ô nhiễm không khí hiện được xem là mối đe dọa sức khỏe môi trường lớn nhất trên thế giới. Theo tổ chức Y tế thế giới WHO, ô nhiễm không khí có liên quan tới 7 triệu ca t.ử v.ong sớm mỗi năm. Cũng theo số liệu của Liên hợp quốc, mỗi giờ có 800 ca t.ử v.ong do ô nhiễm không khí, trung bình 13 người t.ử v.ong mỗi phút, gấp 3-5 lần số người c.hết vì sốt xuất huyết và HIV.
Người tiếp xúc với ô nhiễm không khí có thể dẫn đến giảm chức năng phổi, n.hiễm t.rùng đường hô hấp và hen suyễn nặng hơn.
Ô nhiễm không khí được cho là có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm trọng ở t.rẻ e.m. Tiếp xúc với ô nhiễm không khí trong thời kỳ đầu đời có thể có các dấu hiệu trầm cảm, lo lắng và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác ở t.uổi dậy thì – theo nghiên cứu mới của Đại học Cincinnati ở Mỹ.
Một nghiên cứu thứ hai, được công bố trên tạp chí Nghiên cứu môi trường đã tìm thấy mối liên hệ giữa phơi nhiễm ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông (TRAP) gần đây và lo lắng tổng quát cao hơn. Và việc tiếp xúc với TRAP trong thời kỳ đầu đời và trong suốt thời thơ ấu có liên quan đáng kể đến trầm cảm và các triệu chứng lo lắng ở trẻ 12 t.uổi.
Giáo sư Isobel Braithwaite, Đại học College London (UCL) cho biết: “Các hạt nhỏ nhất từ không khí bẩn có thể đến não qua cả m.áu và mũi. Ô nhiễm không khí cũng liên quan đến tình trạng viêm não gia tăng, tổn thương tế bào thần kinh và thay đổi quá trình sản xuất hoóc môn gây căng thẳng. Tất cả những điều này đều ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của con người”.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Viễn cảnh Sức khỏe Môi trường, cho thấy mối liên hệ mạnh mẽ giữa không khí độc hại với trầm cảm và t.ự t.ử. Điều này góp phần hỗ trợ cho các nghiên cứu gần đây liên quan đến ô nhiễm không khí với tỷ lệ t.ử v.ong rất cao ở những người bị rối loạn tâm thần và nguy cơ trầm cảm tăng gấp 4 lần ở thanh thiếu niên.
Dữ liệu mới được phân tích liên kết trầm cảm với các hạt ô nhiễm không khí nhỏ hơn 2,5 micromet (tương đương 0,0025 mm và được gọi là PM2,5). Những người tiếp xúc với mức tăng 10 microgam trên mét khối (g/m3) ở mức PM2,5 trong một năm trở lên có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn 10%. Mức PM2.5 tại các thành phố dao động từ cao như 114g/m3 ở Delhi, Ấn Độ, đến thấp chỉ 6g/m3 tại Ottawa, Canada.
Tại các thành phố của Anh năm 2017, mức PM2.5 trung bình là 13 g/m3. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng việc hạ thấp mức này xuống mức giới hạn 10g/m3 của WHO có thể làm giảm trầm cảm ở người dân thành phố khoảng 2,5%.
Dữ liệu hiện có về nguy cơ t.ự t.ử là đối với các hạt có kích thước lên tới 10 micromet (PM10). Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một hiệu ứng ngắn hạn, với mức tăng 10g/m3 trong ba ngày làm tăng nguy cơ t.ự t.ử lên 2%.
Ô nhiễm không khí liên quan đến sảy thai
Các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã tìm thấy mối liên hệ đáng kể giữa ô nhiễm không khí và nguy cơ sảy thai.
Trong khi ô nhiễm không khí có liên quan đến nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp, đột quỵ và đau tim, thì những phát hiện mới này có thể làm tăng thêm sự cấp bách đối với các nỗ lực của Bắc Kinh để hạn chế vấn đề ô nhiễm, vốn đã gây khó khăn cho các thành phố Trung Quốc từ lâu.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Sustainability, các nhà khoa học từ năm trường đại học Trung Quốc đã kiểm tra tỷ lệ “sảy thai thầm lặng” trong 3 tháng đầu tiên, xảy ra khi thai nhi đã c.hết nhưng không có dấu hiệu sảy thai, khiến cha mẹ lầm tưởng thai kỳ đang tiến triển bình thường. Điều này có thể xảy ra ở 15% trường hợp mang thai.
Sử dụng hồ sơ lâm sàng của 255.668 phụ nữ mang thai từ năm 2009 đến 2017 tại Bắc Kinh, nghiên cứu đã đ.ánh giá mức độ phơi nhiễm tại nhà và tại nơi làm việc với ô nhiễm không khí đến từ các ngành công nghiệp, hộ gia đình, xe hơi và xe tải. Các nhà nghiên cứu đã xem xét 4 loại chất gây ô nhiễm không khí: một loại hạt mịn c.hết người được gọi là PM2,5, sulfur dioxide, ozone và carbon monoxide. Các mức được tính toán dựa trên dữ liệu lịch sử được thu thập bởi mạng lưới các hệ thống giám sát không khí xung quanh thủ đô của Trung Quốc, nơi nổi tiếng với bầu trời xám xịt, rực rỡ.
Trong số những phụ nữ tham gia vào nghiên cứu, 17.497 trường hợp bị sảy thai thầm lặng trong ba tháng đầu. Cân nhắc các độ t.uổi, nghề nghiệp và nhiệt độ không khí khác nhau, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, trong tất cả các nhóm, việc người mẹ tiếp xúc với từng chất gây ô nhiễm không khí có liên quan đến nguy cơ xảy thai.
Zhang Liqiang, một nhà nghiên cứu tại Đại học Sư phạm Bắc Kinh và là tác giả chính của nghiên cứu, nói rằng cần nhiều nghiên cứu hơn để xác định mối liên hệ chính xác giữa các chất ô nhiễm khác nhau và nguy cơ sảy thai bị bỏ lỡ.
Tom Clemens, giảng viên tại Đại học Edinburgh, người đã nghiên cứu về vấn đề này cho biết, có rất nhiều bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa ô nhiễm không khí và kết quả mang thai nói chung, đặc biệt là nguy cơ sinh non và trẻ nhẹ cân.
Những lo ngại về sức khỏe về ô nhiễm không khí đã tăng nhanh ở Trung Quốc trong thập kỷ qua, phần lớn là về t.rẻ e.m. Chai Jing, cựu phóng viên nói rằng cô đã có động lực để làm một bộ phim tài liệu về đất nước bị ô nhiễm không khí tàn phá sau khi cô bị biến chứng khi mang thai. Sau khi phát hành vào năm 2015, bộ phim tài liệu Under the Dome đã nhanh chóng lan truyền trước khi các nhà kiểm duyệt đột ngột ra lệnh loại bỏ nó khỏi các nền tảng trực tuyến.
Các mối lo ngại xung quanh ô nhiễm không khí – và mối đe dọa ngầm đối với sự ổn định xã hội rộng lớn hơn – đã thúc đẩy các quan chức chính phủ cố gắng và giải quyết vấn đề này. Những nỗ lực đó, bao gồm việc hạn chế xây dựng các nhà máy nhiệt điện than và giới hạn số lượng xe trên đường, phần lớn đã thành công. Một báo cáo được công bố vào tháng 10/2019 bởi công ty IQAir AirVisual của Thụy Sĩ cho biết Bắc Kinh đã đi đúng hướng trong năm nay để ra khỏi danh sách 200 thành phố ô nhiễm nhất thế giới.
Phương Ly
Theo ngaynay
Đừng để trầm cảm “đánh cắp” cuộc sống của bạn!
Sulli, nữ idol người Hàn Quốc đã chọn cách kết thúc cuộc đời sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh trầm cảm.
Khoảng thời gian cô quay trở lại sau thời gian điều trị, vẻ ngoài rạng rỡ khi xuất hiện trước công chúng khiến người ta nghĩ rằng cô đã ổn. Nhưng không, và chắc hẳn chính cô cũng ý thức được điều đó.
Giống như một con sâu đục thân, người mắc bệnh trầm cảm không biểu hiện bất kỳ dấu hiệu nào về việc mình đang mang theo căn bệnh nguy hiểm ấy. Hay như Sulli, chỉ đến khi thông tin về cái c.hết của cô qua đời, tất cả những điều cô từng chia sẻ về căn bệnh của mình mới được đào xới và quan tâm, dẫu đã quá muộn.
Chúng ta cần biết điều gì để ngăn chặn căn bệnh đang phá hủy cuộc sống của những người chúng ta thương yêu?
1.Trầm cảm gây đau đớn
Buồn phiền chỉ là một trong rất nhiều triệu chứng của trầm cảm. Trên thực tế, không ít người bị trầm cảm lại không hề có cảm giác buồn bã. Những người bị trầm cảm dễ gặp các triệu chứng như đau nhức toàn thân, đau đầu, chuột rút hay các vấn đề về tiêu hóa và cản trở nhiều hoạt động trong cuộc sống. Nếu bạn gặp phải một trong những triệu chứng dưới đây trong khoảng thời gian từ 2 tuần trở lên, hãy cân nhắc khả năng bạn đã bị trầm cảm:
– Thường xuyên cảm thấy buồn bã, lo lắng, trống rỗng
– Cảm giác tuyệt vọng hoặc bi quan
– Cáu gắt
– Cảm giác tội lỗi, vô dụng hoặc bất lực
– Mệt mỏi hoặc suy giảm năng lượng
– Khó ngủ, thường xuyên tỉnh giấc giữa đêm
– Mất hứng thú với các hoạt động trong cuộc sống
– Cảm giác bồn chồn, không yên
– Khó tập trung, ghi nhớ hoặc ra quyết định
– Di chuyển hoặc nói chuyện chậm hơn
– Mất cảm giác thèm ăn, thay đổi cân nặng đột ngột
– Đau nhức toàn thân, chuột rút, gặp vấn đề về tiêu hóa mà không có nguyên nhân rõ ràng
– Xuất hiện những suy nghĩ về cái c.hết
Hãy nói chuyện với bác sĩ về những triệu chứng này. Bác sĩ cần biết về thời điểm bắt đầu của triệu chứng, khoảng thời gian xảy ra trong ngày, tần suất xuất hiện và mức độ ảnh hưởng của nó đến các hoạt động thể chất và cuộc sống của người bệnh.
2. Các giai đoạn dễ xảy ra trầm cảm ở phụ nữ
– T.iền k.inh n.guyệt
Phần lớn phụ nữ đều biết về hội chứng t.iền k.inh n.guyệt (Premenstrual Syndrome – PMS) với các rối loạn thể nhẹ như tâm trạng thất thường, đầy hơi, mệt mỏi, táo bón diễn ra trong một thời gian ngắn, khoảng 5-7 ngày trước kì kinh. Nguyên nhân chủ yếu do việc mất cân bằng hoóc-môn trong cơ thể trước ngày “đèn đỏ”.
Tuy nhiên, có một dạng rối loạn tâm thần t.iền k.inh n.guyệt (PMDD) ít gặp hơn, nhưng lại nghiêm trọng và kéo dài hơn. Sự mất cân bằng nội tiết tố, đặc biệt là thiếu hụt hoóc-môn serotonin được xem là nguyên nhân chính dẫn đến các triệu chứng rối loạn này. Có khoảng 3-8% phụ nữ nhận thấy các dấu hiệu khó chịu gấp bội trước kì kinh như: cảm giác tuyệt vọng, có ý nghĩ về cái c.hết, luôn căng thẳng, hoảng sợ, không tập trung, không quan tâm đến sinh hoạt hàng ngày, mất ngủ, biếng ăn, đau nhức xương cơ.
– Sau sinh
Phụ nữ mới sinh thường phải đối diện với các rối loạn tâm thần từ khoảng 1 đến 4 tuần sau kỳ sinh nở. “Baby blues” là thuật ngữ miêu tả tâm trạng buồn bã, mệt mỏi, lo lắng, dễ cáu gắt xuất hiện ở thời điểm 3-4 ngày sau sinh. Hội chứng này liên quan đến lượng hoóc-môn suy giảm đột ngột và cơ thể bắt đầu cơ chế sản xuất sữa. Hội chứng “baby blues” không phải là bệnh, không cần điều trị, người mẹ chỉ cần được nghỉ ngơi, nhận được sự hỗ trợ của gia đình và bạn bè là đủ.
Tuy nhiên, trầm cảm sau sinh lại là rối loạn tâm thần nghiêm trọng hơn và thường liên quan đến yếu tố di truyền (t.iền sử bị trầm cảm hoặc trong gia đình có người bị trầm cảm). Giống hội chứng “baby blues”, nhưng triệu chứng của trầm cảm sau sinh nghiêm trọng hơn: tâm trạng chán nản, bất lực, hay nghĩ về cái c.hết, có suy nghĩ làm tổn thương mình hoặc người khác, cảm thấy không có mối gắn kết nào với con. Phụ nữ bị trầm cảm sau sinh cần được hỗ trợ, điều trị và giám sát liên tục.
– T.iền mãn kinh
Khi phụ nữ bước vào độ t.uổi 40-45, chu kì k.inh n.guyệt bắt đầu thưa dần và không đều, đó là những dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn t.iền mãn kinh. Trong giai đoạn này, nhiều người nhận thấy các triệu chứng rối loạn cả tâm thần và thể chất như: mệt mỏi, uể oải, nóng trong người, mất ngủ, buồn bực, chán nản, giảm ham muốn chăn gối… Các triệu chứng này thường kéo dài ít nhất 2 tuần.
3. Trầm cảm có thể chữa trị
Với mỗi người, mức độ trầm cảm và triệu chứng là hoàn toàn khác nhau, chính vì vậy sẽ không thể có một phác đồ điều trị cho tất cả. Đôi khi các bệnh nhân trầm cảm phải trải qua một vài bước điều trị thử nghiệm để tìm được phương pháp phù hợp với mình. Điều này đòi hỏi sự kiên nhẫn, vì có nhiều loại thuốc cần đến 8 tuần hoặc lâu hơn để có hiệu lực đầy đủ với cơ thể.
Đừng bỏ cuộc cho đến khi tìm được phương pháp phù hợp, bởi việc dừng đột ngột có thể khiến các triệu chứng trầm cảm nặng hơn. Việc điều trị cần phải kéo dài trong nhiều tháng sau đó ngay cả khi người bệnh đã cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh. Thời gian ít nhất cho mỗi đợt điều trị bệnh là 6 tháng.
– Theo Tổ chức Y tế thế giới WHO, bệnh trầm cảm mỗi năm cướp đi sinh mạng của 850.000 người, và chỉ có 25% số người bị trầm cảm được điều trị đúng và kịp thời.
– Dự đoán đến năm 2020, trầm cảm sẽ là căn bệnh có nguy cơ cao thứ hai trong số những bệnh phổ biến toàn cầu, với 121 triệu bệnh nhân.
Theo depweb/dep.com.vn